Ngày nay phần lớn ô tô con đều trang bị ABS, thậm chí có quốc gia đưa vào tiêu chuẩn của họ: ô tô con phải được bố trí ABS. Tuy vậy ở nước ta, với người sử dụng thông thường, ít có kiến thức về ABS thì vấn đề này có thể nhận dạng nhanh chóng như sau:
- Trên bảng điều khiển có đèn ABS (ngoại trừ đèn phanh tay, đèn mức dầu phanh). Khi bạn đặt chìa khóa điện vào vị trí ON (đóng công tắc điện chính), đèn ABS sẽ báo sáng trong vòng 1 giây sau đó đèn tắt, nếu để ý sẽ thấy. Đèn chỉ sáng trong chốc lát, sau đó đèn tắt. Khi hệ thống ABS có sự cố bên trong, đèn tự động bật sáng (báo lỗi). Mỗi vị trí bố trí đèn ABS trình bày trên hình 1.
- Nhìn ở bánh xe chỗ gần cơ cấu phanh có cụm dây điện dẫn và ổ nối dây, các bánh xe có các đường dây dẫn điện tới bánh xe. Tất nhiên, tùy thuộc vào cấu trúc chung đã trình bày, số lượng bánh xe có cụm dây điện không nhất thiết là cả 4 bánh. Nếu toàn bộ cả 4 bánh xe thì cấp độ của trang bị ABS càng cao. Một vài kết cấu điển hình trình bày trên hình 2.
- Khi phanh trên nền đường tốt kiểm tra vết phanh, nếu có ABS vết phanh sẽ mờ và không rõ, còn nếu không có ABS phanh sẽ tạo vết trượt dài. Các vết trượt xảy ra có thể khác nhau, tuy vậy nếu cả 4 bánh có ABS, độ trượt trên đường tốt chỉ mờ mờ, tương ứng với độ trượt bánh xe khoảng 0,15 đến 0,3. Khi xe không có ABS, phanh gấp, độ trượt có thể rất lớn tới giới hạn 1,0 và để lại vết trượt dài trên nền đường.
Nhờ các thông tin kể trên người ít hiểu biết có thể xác định được ô tôt có và không ABS.
Câu hỏi 6: ABS có hiệu quả phanh tốt khi đi trên nền đường trơn?
Trang bị ABS trên ô tô phát huy hiệu quả cao khi ô tô được phanh trên nền đường tốt, khả năng rút ngắn quãng đường phanh tối đa có thể khoảng 15% so với xe không trang bị ABS. Ngoài ra các tác dụng khác của ABS đã trình bày trong các số Tạp chí trước đây.
Vấn đề sẽ được trao đổi khi xe chạy trên nền đường trơn.
Ô tô thực hiện phanh tức là thực hiện khả năng tiêu hao động năng của ô tô. Khả năng này do tính chất bám của bánh xe và nền đường quyết định. Khi xe chạy trên nền đường trơn, khả năng bám của bánh xe trên nền thấp, do vậy, hiệu quả phanh giảm theo khả năng bám.
Khi phanh, cơ cấu phanh đóng vai trò ngăn cản sự quay của bánh xe, góp tiêu hao động năng của bánh xe, đồng nghĩa với việc tiêu hao đông năng của ô tô. Tuy nhiên sự tiêu hao động năng của ô tô còn phụ thuộc vào sự trượt của bánh xe trên nền đường.
Nếu bánh xe được phanh với độ trượt của bánh xe trên nền tối ưu cho phép tiêu hao tốt động năng của ô tô, như vậy cần thiết phải kiểm soát chặt chẽ sự phanh của bánh xe. Khi chạy trên đường trơn, khả năng tiêu hao động năng chủ yếu được thực hiện ở cơ cấu phanh, nhưng chỉ đảm bảo cho bánh xe không có khả năng tạo lực lớn nên không thể có hiệu quả cao trên nền đường trơn và hậu quả không đáp ứng được khả năng tiêu hao nhanh động năng toàn xe.
Từ phân tích trên, trang bị ABS ít có hiệu quả phanh trên nền đường trơn. Tuy nhiên cũng nhận thấy ô tô con chủ yếu hoạt động trên nền đường tốt, tốc độ cao, do vậy trang bị ABS là cần thiết.
Với người sử dụng ô tô có trang bị ABS, không nên vì cho rằng xe có ABS tạo hiệu quả phanh trên mọi loại nền đường, mà dẫn tới chủ quan trong điều khiển phanh xe trên nền đường trơn.
Khả năng vượt đường trơn trong các tình huống đối với người sử dụng như sau:
- Nếu khoảng đường trơn ngắn, có thể quản lý được an toàn, có thể nhanh chóng vượt qua bằng tốc độ xe, không nên sử dụng phanh, kể cả với xe có trang bị ABS. Trong trường hợp này, nếu phanh xe trên đoạn đường trơn có thể sẽ gây mất khả năng điều khiển hướng chuyển động của xe.
- Nếu đoạn đường trơn dài có nhiều chướng ngại xung quanh, tốt nhất nên giảm tốc độ xuống đến mức an toàn, chậm chạp cho xe lăn qua, khi cần phanh có thể phanh nhẹ, hạn chế đánh lái nhiều đến mức có thể. Nếu trong trường hợp này bạn phanh gấp thì hậu quả sẽ khó lường, vì hiệu quả phanh sẽ rất kém và khi đã phanh gấp khả năng rẽ ngang sẽ lớn làm xe có thể quay ngang nguy hiểm.
Tuy nhiên so sánh giữa xe có ABS với xe không có ABS, có thể nhận xét sơ bộ như sau: khi đi trên đường trơn khả năng rê ngang sẽ ít hơn. Điều này giúp cho các xe có trang bị ABS được ưa chuộng nhiều hơn, đối với người sử dung.
Câu hỏi 7: Hiệu quả của ABS ở tốc độ thấp dưới 5 km/h có hay không?
Để tìm hiểu sâu về vấn đề này, hãy hạn chế vấn đề với xe chỉ có hệ thống ABS đơn thuần, mà không phải là hệ thống ABS liên hợp.
Hệ thống ABS ngày nay được kích hoạt làm việc bởi các yếu tố sau đây:
- Công tắc bàn đạp chân phanh.
- Tốc độ chuyển động của ô tô.
- Độ trượt hoặc gia tốc quay bánh xe.
Như vậy tốc đọ chuyển động của ô tô tham gia vào một trong các yếu tố kích hoạt trang bị ABS. Việc bố trí ABS trên ô tô với mục đích đảm bảo hiệu quả phanh trên đường tốt và tốc độ cao, do vậy các nhà chế tạo đã cài đặt tốc độ ban đầu có hiệu quả chống trượt lét ở trong ECU với tốc độ ô tô cao hơn một ngưỡng giá trị nhất định. Giá trị ngưỡng này không hoàn toàn như nhau cho các kiểu xe khác nhau. Điểm bắt dầu làm việc của ABS được kích hoạt hỗ trợ nằm trong khoảng 8 km/h đến 20 km/h tùy thuộc vào các nhà chế tạo. Do vậy ở vùng tốc độ dưới 5 km/h hệ thống ABS đơn thuần không làm việc.
Ở vùng chưa kích hoạt các bộ phận như bơm dầu đã nằm trong trạng thái sẵn sàng làm việc, nhưng hệ thống phanh chân vẫn làm việc như hệ thống không có ABS.
Điều này cho phép khi cần kiểm soát tự làm việc của xe có trang bị ABS trên các hệ kiểm tra phanh của các Trung tâm Đăng kiểm vẫn tiến hành bình thường như các loại xe không trang bị ABS, vì các tang trống quay của bệ chỉ quay với tốc độ tương đương 4 km/h của xe khi chạy trên đường.
Tuy nhiên với xe có trang bị ABS liên hợp cần có sự lưu ý nhất định của cán bộ chịu trách nhiệm kiểm tra kỹ thuật.
Hệ thống ABS liên hợp ngày nay có thêm các chế độ chống trượt quay (TRC hay ASR), chế độ ổn định hướng chuyển động (VSC), các hệ thống này tác động trong trường hợp không có tác động cảu bàn đạp chân phanh, và kích hoạt ngay ở tốc độ ô tô xấp xỉ bằng không. Sự kích hoạt này thông qua phím bấm, thiết bị ABS sẽ hỗ trợ cho các bánh xe nhằm hạn chế khả năng trượt quay bánh xe chủ động và có thể độc lập tác động hỗ trợ ABS cho các bánh xe. Như vậy khi kiểm tra phanh với xe có ABS liên hợp phải ngắt kích hoạt này (phím ấn phải được trở về vị trí không kích hoạt) nhằm tránh các tác động liên quan khi đap phanh.
Sự thiếu sót trong công việc này, trong một số trường hợp, có thể dẫn tới không thực hiện kiểm tra được hệ thống phanh cảu xe ở tốc độ thấp.
Câu hỏi 8: Áp suất hơi lốp có ảnh hưởng tới sự làm việc của ABS?
Nhìn chung áp suất hơi lốp có ảnh hưởng tới trạng thái làm việc của ABS. Xuất phát từ các công thức tính toán độ trượt bánh xe và sự thay đổi khả năng bám của bánh xe trên nền.
Nếu áp suất bánh xe lớn hơn quy định, tác động của bánh xe trên nền đường sẽ thay đổi theo hướng lớn lên, ảnh hưởng tới sự quay bánh xe phanh thông qua lực phanh và bán kính lăn của bánh xe, dẫn tới tăng độ trượt và ABS được tiến hành điều chỉnh sớm lên. Trong trường hợp áp suất lốp giảm, sự việc diễn ra theo hướng ngược lại.
Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng được phân tích trong thực tế như sau: nếu áp suất hơi lốp thay đổi trong vòng 5% (từ 2,3 bar lên 2,4 bar), bán kính bánh xe có thể thay đổi khoảng 2%, hệ số bám thay đổi khoảng 2,5%. Qua tính toán độ trượt bánh xe thay đổi khoảng 4%. Nếu coi độ trượt tối ưu là 0,25, giá trị sai lệch độ trượt bánh xe sẽ là 0,25 +- 0,04. Thực chất sự thay đổi là không đáng kể và phù hợp với sự dao dộng áp suất hơi lốp cho phép trong khai thác sử dụng.
Trong thực tế áp suất hơi lốp có thể xảy ra:
- Tăng đều quá cao và quá thấp áp suất hơi lốp trên tất cả các bánh xe.
- Sai lệch áp suất hơi lốp của một bánh xe so với các bánh xe khác, đây là trưởng hợp nguy hiểm nhất trong sử dụng.
Ngày nay có xu hướng tăng áp suất hơi lốp để xe chạy (bon) trơn hơn, nhằm giảm lợi giới hạn nhất định. Sự tăng quá mức, vượt quá giá trị lớn nhất ghi trên mặt bên của lốp sẽ có thể gây nhiều bất lợi về khả năng đảm bảo an toàn của xe (kể cả xe có và không có ABS).
Câu hỏi 9: Khi hệ thống điện tử của ABS bị hỏng, hệ thống phanh dầu còn làm việc được không?
Hệ thống ABS của ô tô con đều được xây dựng trên cơ sở hệ thống phanh thủy lực truyền thống. Việc sử dụng các van điện giúp cho khả năng thay đổi lực phanh linh hoạt, tùy thuộc vào trạng thái lăn trượt bám của bánh xe trên nền khi phanh.
Ngay ở giai đoạn đầu của quá trình phanh, hệ thống thủy lực cho phép áp suất điều khiển các bánh xe tăng theo sự tăng áp suất của xy lanh chính . Quá trình tăng áp đó chính là quá trình tăng áp của hệ thống phanh thực hiện phanh xe. Hay nói một cách khác: các van thủy lực trong hệ thống phanh ABS đều có vị trí ban đầu nằm ở trạng thái mở thông các đường dầu áp suất tới các xy lanh bánh xe, tạo điều kiện cho việc tăng áp ban đầu khi phanh.
Sự hư hỏng của hệ thống điện tử trên ô tô con có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân và có thể phân chia theo vấn đề cần trao đổi là:
- Hư hỏng hệ thống điện tử không làm sai lệch vị trí ban đầu của hệ thống thủy lực.
- Hư hỏng hệ thống điện tử dẫn tới mất khả năng điều khiển của hệ thống phanh ABS.
- Hư hỏng hệ thống điện tử dẫn tới thay đổi đường dẫn dầu của hệ thống thủy lực.
Trong cả 3 trường hợp này đèn ABS trên bảng tablo sẽ luôn sáng, tín hiệu báo sáng thông tin cho người lái biết hệ thống đang có sự cố. Việc tìm hiểu sâu hơn có thể thông qua các mã cốt báo lỗi, điều này được xác định nhờ các gara bảo hành và sửa chữa trong mạng chăm sóc khách hàng của nhà sản xuất.
Trong trường hợp này ứng với 3 vấn đề kể trên, có thể xảy ra các tình huống xử lý của người sử dụng:
Hai trường hợp 1 và 2 người lái có thể tự thực hiện đưa xe vào ga ra xem xét. Riêng trường hợp thứ 3 cần thiết phải thận trọng hơn cả. Khi đó, hệ thống phanh thủy lực không đảm bảo làm việc bình thường do vậy có thể xử lý bằng các phương pháp truyền thống:
- Sử dụng phanh tay điều khiển xe đến nơi sửa chữa.
- Dùng xe cứu hộ vận chuyển xe đến nơi sửa chữa.
Như vậy vấn đề được nêu ra là cần người lái có chút kinh nghiệm, để khi gặp hai tình huống trên có thể vận hành hệ thống phanh như hệ thống phanh thông thường, ở tình huống cuối cùng, người lái cẩn thận trọng hơn.
Điều này người lái có thể tự kiểm soát thông qua: việc cho động cơ nổ máy, (đèn ABS sẽ sáng) thực hiện di chuyển xe dưới 10km/h và thực hiện phanh xe. Qua tình trạng nhận biết được, người lái sẽ quyết định các tình thế xử lý tiếp sau.
Câu hỏi 10: Tại sao nói ABS loại 3 kênh là chuẩn mực, điều đó có hoàn toàn đúng hay không?
Trên ô tô con ngày nay có nhiều sơ đồ bố trí, chúng ta quan tâm hơn cả là loại sơ đồ 3 kênh điều khiển và loại 4 kênh điều khiển. Các loại sơ đồ ngày nay thường gặp hơn cả.
Nếu với hệ thống ABS đơn thuần, sơ đồ 3 kênh, với 2 kênh độc lập điều khiển hai bánh xe cầu trước, 1 kênh điều khiển hai bánh xe cầu sau, cho phép:
- Trên cầu trước các bánh xe được phanh ở trạng thái tối ưu của khả năng bám, động năng được hấp thụ có thể đạt tới 70% động năng cần phanh của xe. Bằng cấu trúc hệ thống điều khiển độc lập cải biên (IRM) cho phép giảm thấp độ chênh lực phanh trong hai kênhh độc lập hạn chế sự cần thiết phải điều chỉnh hướng chuyển động của người lái khi phanh.
- Trên cầu sau, tải trọng thẳng đứng giảm khi phanh, sự cân bằng lực phanh là hết sức cần thiết, nhằm tránh bị rê ngang thân xe. Các cầu sau trên ô tô con thường không phải là cầu dẫn hướng, do vậy người lái khó có khả năng điều chỉnh hướng chuyển động khi phanh. Việc bố trí hai cảm biến tốc độ và 1 kênh điều khiển ABS trên hai bánh sau giúp thực hiện khả năng cân bằng lực phanh.
Với các lý do như trên, nếu trên ô tô bố trí ABS đơn thuận, loại hệ thống ABS 3 kênh là thích hợp. Nhiều nhà chế tạo trong nhiều năm trước đây sử dụng hệ thống loại này bố trí thành tiêu chuẩn cho ô tô con.
Tuy nhiên ngày nay do yêu cầu ngày càng nâng cao đòi hỏi khả năng mở rộng sang các tính năng khác nên trên ô tô lại chuyển sang lựa chọn loại hệ thống phanh 4 kênh độc lập.
Với các hệ thống 4 kênh có tổ hợp các chức năng TRC (hay ASR), VSC, khi xe hoạt động hệ thống cần có tác dụng điều khiển độc lập cho từng bánh xe. Hệ thống 4 kênh điều khiển cho phép thực hiện tốt khả năng này, do vậy, ngày nay hệ thống phanh ABS và liên hợp nhiều chức năng sử dụng 4 kênh điều khiển.
PGS.TS. Nguyễn Khắc Trai – Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Nguồn : quangnam.dangkiem.com
No comments:
Post a Comment