domain, domain name, premium domain name for sales

Thursday, April 5, 2012

Lịch sử hãng Ford

Giới thiệu chung       
Ford là tập đoàn ôtô đa quốc gia của Mỹ và là một trong những nhà sản xuất ôtô hàng đầu thế giới có trụ sở chính được đặt tại Dearbon, bang Michigan, ngoại ô của Metro Detroit, Hoa Kỳ. Được sáng lập bởi Henry Ford, đến năm 1903 Ford đã trở thành tập đoàn công nghiệp ô tô hàng đầu thế giới. 
Đến nay, hãng đã sở hữu rất nhiều nhãn mác xe hơi nổi tiếng thế giới bao gồm Lincoln và Mercury tại Mỹ; Jaguar, Aston Martin và Land Rover tại Anh; và Volvo tại Thụy Điển. Ford cũng nắm một phần ba số cổ phiếu của Mazda. Đứng thứ ba trong số những hãng ôtô bán chạy nhất thế giới vào năm 2005, tập đoàn này còn là một trong mười tập đoàn có doanh thu cao nhất. Năm 1999, Ford được đánh giá là một trong những nhà sản xuất ô tô có mức sinh lợi lớn nhất thế giới. 


        Ford đã giới thiệu phương thức sản xuất ôtô và phương pháp quản lý nguồn nhân lực trên quy mô lớn , đặc biệt là những dây chuyền lắp rắp được xây dựng công phu mà tiêu biểu là dây chuyền lắp ráp tự động. Sự kết hợp các nhà máy hiệu quả cao, nguồn nhân công được trả lương hậu hĩnh và những quy trình sản xuất chi phí thấp của Henry Ford đã được khắp thế giới biết đến như là Triết lý kinh tế vào năm 1914.

Henry Ford  
  Những thành tựu ban đầu
Ford ra đời từ một nhà máy chuyên nâng cấp xe wagon vào năm 1903 với số vốn tiền mặt là $28.000 của 12 cổ đông. Trong những năm đầu khi mới thành lập, công ty chỉ sản xuất được vài chiếc ôtô mỗi ngày tại nhà máy nằm trên đại lộ Mack ở Detroit. Henry Ford thành lập ra hãng Ford năm ông 40 tuổi. Và từ đó đến nay Ford trở thành một trong những công ty lớn nhất và mang lại nhiều lợi nhuận nhất trên thế giới. Đây cũng là một trong số ít các công ty đã trụ vững được sau cuộc Đại suy thoái kinh tế. Từ hơn 100 năm nay, hãng luôn nằm dưới sự lãnh đạo của các thành viên trong gia đình Ford.
      Năm 1908, Ford cho ra đời chiếc Ford model T đầu tiên được sản xuất tại nhà máy Piquette. Sau đó ít lâu công ty đã chuyền tới một nhà máy rộng hơn là Highland park để kịp đáp ứng nhu cầu của khách hàng về dòng xe Model T. Đến năm 1913, công ty đã đạt được những kỹ thuật căn bản của phương pháp sản xuất theo dây chuyền lắp ráp và sản xuất hàng loạt; và cùng năm đó, Ford giới thiệu dây chuyền lắp ráp tự động đầu tiên trên thế giới. So với việc lắp ráp thủ công, dây chuyền này đã tiết kiệm thời gian sản xuất trong tháng 10 từ 12 tiếng 30 phút xuống còn 2 tiếng 40 phút. Tuy nhiên, phương pháp này không phổ biến lắm và chi phí cho công nhân lại rất lớn. “Chi phí’ ở đây nghĩa là chi phí cho việc đào tạo và thuê công nhân có tay nghề thấp. Ford là công ty đầu tiên ở Mỹ áp dụng chính sách lương tối thiểu và tuần làm việc 40 tiếng trước khi chính phủ cho thi hành  đạo luật này. Tháng 1 năm 1914, hãng đã nâng cao tính hiệu quả của công ty bằng cách tăng lương gấp đôi cho nhân viên và áp dụng giờ làm việc 8 tiếng/ngày thay vì 9 tiếng như trước đây. Hãng tiến hành thuê những công nhân lành nghề và từ đó năng suất lao động tăng vọt còn số lượng nhân công từ bỏ công việc giảm đi rõ rệt do chi phí sản xuất giảm. Ford lại tiếp tục giảm giá sản phẩm và thiết lập nên mạng lưới đại lý phân phối độc quyền trung thành với nhãn mác.

Cuối năm 1913, Ford là nhà cung cấp  50%  số xe tại thị trường Mỹ và đến năm 1918 một nửa số xe trên nước Mỹ là Model T của Ford. Henry đã từng nói: “ Khách hàng muốn lựa chọn sơn xe màu nào cũng được không nhất thiết phải là mầu đen.” bởi vì lúc đó sơn màu đen là loại sơn khô nhanh nhất, tốt nhất. Những mẫu xe ban đầu thường có sẵn nhiều loại màu sơn.
Năm 1951, Henry Ford thực hiện sứ mệnh hoà bình bằng một chuyến công du tới Châu Âu. Ông cùng với những người yêu hoà bình khác đã nỗ lực hết mình nhằm ngăn chặn cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Uy tín cá nhân Ford được nhân lên gấp bội. Ford tiếp tục những nỗ lực của mình bên cạnh hình ảnh chiếc Model T đang trở thành bạn đồng hành của quân đội đồng minh.

Những thành tựu sau chiến tranh thế giới thứ nhất
        Năm 1919, Edsel Ford nắm quyền lãnh đạo công ty thay cha mình, lúc đó Henry Ford vẫn nằm trong ban lãnh đạo. Giá thành sản phẩm của Ford tương đối thấp nhờ dây chuyền lắp ráp hiệu quả, nhưng công ty vẫn áp dụng lối quản lý cá nhân đã lỗi thời và không chú ý tới nhu cầu của người tiêu dùng về xe hơi cao cấp. Dần dần hãng đánh mất thị phần của mình cho GM và Chryster. Hai hãng xe này cùng nhiều đối thủ cạnh tranh khác bắt đầu sản xuất những mẫu xe mới với nhiều đặc điểm vượt trội và dáng vẻ sang trọng. GM có nhiều loại xe từ giá rẻ cho đến hạng sang, đáp ứng mọi nhu cầu của người tiêu dùng. Các đối thủ khác thì bắt đầu thâm nhập vào thị trường mới bằng cách hỗ trợ tín dụng cho khách hàng khi mua sản phẩm. Khách hàng có thể mua những chiếc ôtô giá cao bằng cách trả góp hàng tháng. Ban đầu, Ford không tán thành cách bán hàng này và cho rằng nó có thể gây ảnh hưởng không tốt tới khách hàng và gây ra những gánh nặng cho nền kinh tế sau này. Nhưng cuối cùng thì tháng 12 năm 1927  hãng cũng tham gia vào thị trường tín dụng khi xuất xưỏng Model A tái thiết, thay thế  Model T sau khi đã sản xuất hơn 15 triệu chiếc.

        Năm 1925, Ford mở rộng sản xuất sang thị trường hạng sang bằng việc sát nhập với hãng Lincoln (cái tên này được đặt theo tên của vị tổng thống mà Henry rất ngưỡng mộ) và chi nhánh  Mercury bắt đầu được thiết lập từ năm những năm 1930 để phục vụ thị trường ôtô có giá trung bình.
         Tổng thống Franklin Roosevelt đã từng ví Detroit như “ Thánh địa tự do”. Ford đã góp phần quan trọng trong chiến thắng của quân đồng minh tại chiến tranh thế giới thứ hai. Là người theo chủ nghĩa hoà bình, Henry Ford nhấn mạnh cuộc chiến tranh đó chỉ tốn thời gian sức lực và ông không muốn trục lợi từ cuộc chiến đó. Henry Ford sợ rằng quân Nazis có thể quốc hữu hoá các nhà máy sản xuất của ông ở Đức. Đây là thời gian khó khăn đối với nhiều công ty của Mỹ đang làm ăn tại Châu Âu. Đến mùa xuân năm 1939, quân Nazis đã từng ngày chiếm quyền sở hữu các nhà máy của Ford. Châu Âu hầu như  bị phong toả. Ford đã thật sáng suốt khi chuyển sang sản xuất phục vụ chiến tranh.
   
Những thành tựu sau chiến tranh thế giới thứ 2
        Tháng 5, 1943, Edsel Ford chết, để trống chiếc ghế chủ tịch công ty. Henry Ford tiến cử Harry Bennett, người đã hợp tác với ông từ lâu lên giữ chức này. Vợ góa của Edsel là Eleanor, người thừa kế cổ phần của Edsel, muốn con mình là Henry Ford II được nắm vị trí đó. Vấn đề được giải quyết sau một thời gian khi chính Henry, lúc ấy đã 79 tuổi, phải đích thân giữ chức đó. Henry Ford II ra khỏi Hải quân và trở thành phó chủ tịch chấp hành, trong khi Harry Bennett có một ghế trong hội đồng và chịu trách nhiệm về nhân sự, các quan hệ lao động và quan hệ đối ngoại.
         Công ty  rơi vào thời kỳ khó khăn  hai năm sau đó, thua lỗ $10 triệu một tháng. Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã phải cấp cho Ford một khoản tiến cứu trợ để việc sản xuất của họ có thể tiếp tục trong thời chiến. Tới năm 1945, tình trạng suy yếu của Henry Ford đã khá rõ ràng và vợ cùng con dâu của ông buộc ông phải từ chức để trao quyền cho cháu trai, Henry Ford II.
Henry Ford II giữ chức chủ tịch công ty từ năm 1945 tới năm 1960; Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc từ năm 1960 tới năm 1980.
Henry Ford mất năm 1947. Ông chưa bao giờ biết hết giá trị của công ty mà ông đã sáng lập. Cuốn sách tiểu sử A&E thống kê, có gần 7 triệu người trên thế giới đã bày tỏ lòng tiếc thương vì sự ra đi của ông.
         Năm 1946 Robert McNamara gia nhập tập đoàn Ford với vai trò là giám đốc kế hoạch và nhà phân tích tài chính. Ông nhanh chóng thăng tiến qua hàng loạt các vị trí lãnh đạo cao cấp của công ty và rồi lên chức Chủ tịch của Ford vào ngày 9 tháng 11 năm 1960, một ngày sau thành công của Kennedy trong cuộc Bầu cử Tổng thống. Là nhà lãnh đạo đầu tiên không phải là người nhà Ford, McNamara đã giành được sự tín nhiệm từ Henry Ford II. Ông đã đóng góp vào thành công của Ford trong thời kỳ Hậu chiến tranh. 5 tuần sau khi nhậm chức chủ tịch ở Ford, ông đã nhận lời mời của Tổng thống Kennedy tham gia nội các của Tổng thống với vai trò là Bộ trưởng quốc phòng.
         Vào những năm 1950, Ford giới thiệu mẫu xe thể thao Thunderbird năm 1955 và dòng xe Edsel năm 1958 nhưng mẫu xe này đã bị ngừng sản xuất vào năm 1960 sau 27 tháng có mặt ở thị trường. Sau thất bại của chiếc Edsel, hãng tiếp tục giới thiệu chiếc Ford Falco năm 1960 và chiếc Mustang năm 1964. Đến năm 1967, công ty Ford Châu Âu được thành lập.
Lee Iacocca đã tham gia thiết kế thành công nhiều mẫu xe của Ford, tiêu biểu là chiếc Ford Mustang. Ông trở thành chu tịch của Ford năm 1978 nhưng do mâu thuẫn với Henry Ford II, ông bị cách chức mặc dù năm đó ông đã mang về $2.2 tỷ  tiền lãi cho công ty.

        Harold Poling giữ chức chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc của Ford từ 1990 đến 1993, sau đó Jacques Nasser thay thế trong giai đoạn 1999-2001. Cháu trai đời thứ 3 của Henry Ford, William Clay Ford Jr , trở thành Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc của Ford đến tháng 9 năm 2006 và hiện nay, Mulally đến từ Boeing là người kế nhiệm cương vị này. Năm 2006, gia đình nhà Ford nắm 5% cổ phiếu và điều khiển khoảng 40% số lượng bầu cử thông qua một loại cổ phiếu độc lập.
Ford là một trong hai tập đoàn tiêu biểu trong việc quyên góp từ thiện. Gia đình nhà Ford cũng là gia đình rất nổi tiếng ở Bang Michigan và ở Mỹ.
Quá trình phát triển
  •   1896: Henry Ford sản xuất chiếc xe đầu tiên- Quadricycle - một khung xe ngựa có 4 bánh xe đạp 
  • 1901: Henry Ford giành thắng lợi trong cuộc đua xe đẳng cấp cao tại Gross Point, Mi.
  • 1903: Ford hợp tác với 11 nhà đầu tư. Chiếc Ford Model A đầu tiên được giới thiệu - 1,708 chiếc đã được sản xuất.
  • 1904: Henry Ford hợp tác với Harvey Firestone của công ty lốp xe Firestone.
  • 1906: Ford trở thành nhãn mác xe bán chạy nhất nước Mỹ với 8,729 chiếc được sản xuất
  • 1908: Model T được giới thiệu. 15 triệu chiếc xe đã được sản xuất cho đến năm 1927.
  • 1911:  Ford mở nhà máy đầu tiên ở ngoài khu vực Bắc Mỹ- tại Manchester, Anh.
  • 1913: Dây chuyền lắp ráp tự động đầu tiên được giới thiệu tại nhà máy lắp ráp Highland Park, tăng tốc độ lắp ráp chiếc Model T nhanh hơn 8 lần.
  • 1914: Ford tăng tiền công tối thiểu của công nhân lên $5/ngày- gấp đôi mức lương hiện hành.
  • 1918: Xây dựng khu liên hợp lắp ráp Rouge.
  • 1919: Edsel Ford thay thế chức Chủ tịch công ty của cha mình, Hery Ford.
  • 1921:  Sản lượng của Ford vượt mức 1 triệu  xe/ năm, gấp 10 lần so với hãng sản xuất bán chạy thứ 2 là Chevrolet.
  • 1922: Ford mua lại công ty ôtô Lincoln với giá 8 triệu Đôla Mỹ.
  • 1925: Ford giới thiệu chiếc Ford Tri-Motor, chiếc máy bay dân dụng đầu tiên.
  • 1926:  Ford Australia được thành lập ở Geelong,Victory, Australia.
  • 1927: Chiếc Ford Model T bị ngừng sản xuất, Ford giới thiệu thế hệ xe mới, Model A, sản xuất tại nhà máy Rouge.
  • 1929: Ford khẳng định vị trí số 1 của mình bằng việc sản xuất trên  1.5 triệu chiếc ôtô.
  • 1931: Ford và Chevry lần lượt trở thành những nhà sản xuất hàng đầu của Mỹ, trong cuộc chạy đua bán hàng suốt thời kỳ Đại suy thoái.
  • 1932: Ford giới thiệu động cơ V8
  • 1936: Chiếc Lincoln Zephyr được giới thiệu.
  • 1938:  Lãnh sự quán của Đức ở Cleverland đã trao tặng Henry Ford giải thưởng Grand Cross of the German Eagle, danh hiệu cao quý nhất mà Đức quốc xã trao tặng cho người nước ngoài.
  • 1939: Chi nhánh Mercury được thành lập để đáp ứng phân khúc thị trường trung bình. Chi nhánh này tồn tại đến năm 1945.
  • 1941: Mẫu xe cao cấp  Lincoln Continental được ra mắt. Ford cũng bắt đầu sản xuất những chiếc “jeep” phục vụ cho quân đội. Thoả thuận về lao động đầu tiên với UAW-CIO bao gồm lao động ở bắc Mỹ.
  • 1942: Sản xuất xe dân dụng tạm ngừng, các nhà máy tập trung sản xuất máy bay ném bom B-24 Liberator, xe tăng và các sản phẩm khác phục vụ chiến tranh.
  • 1943: Edsel Ford mất ở tuổi 49 do căn bệnh ung thư, Henry Ford lại giữ chức chủ tịch.
  • 1945: Henry Ford II lên chức chủ tịch.
  • 1945: Lincoln và Mercury được kết hợp thành một chi nhánh.
  • 1946: Whiz Kids, cựu sỹ quan Lực lương Không quân Quân sự Mỹ, được thuê để khôi phục lại công ty. Sản xuất ô tô lại tiếp tục.
  • 1947: Henry Ford mất do xuất huyết não ở tuổi 83. Henry Ford II nắm chức Chủ tịch hội đồng quản trị.
  • 1948: Chiếc xe tải F-1 và chiếc Lincoln Continental được giới thiệu.
  • 1949:  Ford giới thiệu tất cả các thế hệ xe thời kỳ Hậu chiến. Chiếc wagon vừa chỏ khách vừa cho hàng “Woody” được giới thiệu.
  • 1954: Thunderbird được ra mắt như một chiếc xe hạng sang với động cơ V8. Ford bắt đầu thực hiện các cuộc thử nghiệm đụng độ và mở Arizona Proving Grounds.
  • 1956:  Mẫu xe Lincoln Continental Mark II giá $10,000 được giới thiệu. Ford tiến hành niêm yết cổ phiếu.
  • 1957: Ford ra mắt mẫu xe Edsel vào mùa thu năm 1957 dành cho model 1958. Ford là nhãn mác bán chạy nhất với 1,68 triệu xe được sản xuất
  • 1959:  Quỹ tín dụng Ford được thành lập. Ford ngừng sản xuất mẫu xe Edsel vào tháng 11 năm 1959.
  • 1960: Mẫu xe Ford Galaxie và Ford Falco ra mắt.
  • 1960: Robert Mcnamara được Henry Ford II bổ nhiệm làm Chủ tịch của Ford.
  • 1960: Chủ tịch Robert McNamara được Tổng thống John F.Kennedy bổ nhiệm làm Bộ trưởng quốc phòng Mỹ.
  • 1964: Ford Mustang và Ford GT 40 được giới thiệu.
  • 1965: Doanh số của  Ford  ở thị trường Mỹ đã vượt ngưỡng 2 triệu chiếc.
  • 1967: Công ty Ford Châu Âu được thành lập.
  • 1968:  Dòng xe Lincoln Mark Series được giới thiệu như một sản phẩm xe cá nhân hạng sang cạnh tranh với Cadillac Eldorado.
  • 1970: Ford mở rộng hoạt động sang khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
  • 1973: Nhãn mác Ford Mỹ đã vượt mức kỷ lục 2,35 triệu chiếc.
  • 1976: Dây an toàn có thể co rút dành cho xe hơi được sản xuất.
  • 1979: Ford nắm 25% cổ phần của Mazda.
  • 1981: Chiếc Lincoln Town Car ra mắt, được coi là mẫu xe đỉnh nhất của mọi dòng xe. Ford Escort có mặt tại thị trường Mỹ.
  • 1985: Ford Tarus được giới thiệu với thiết kế phi thuyền mang tính cách mạng. Doanh thu hàng năm đạt $53 tỷ.
  • 1987: Ford dành được thương hiệu Aston Martin Lagonda và Hertz Rent-a –Car.
  • 1989: Ford dành được Jaguar, và Mazda MX-5 Miata được trình làng.
  • 1990: Ford Explorer được giới thiệu , biến  SUV thành xe gia đình phổ biến.
  • 1993: Ford giới thiệu túi khí kép như một thiết bị an toàn tiêu chuẩn.
  • 1995: Doanh thu hàng năm của Ford đạt 137 tỷ Đôla Mỹ.
  • 1996: Ford certifies all plants in 26 countries to ISO 14001 environmental standards. The Jaguar XJS with optional V12 is discontinued.  Ford được cấp giấy chứng nhận tât cả các nhà máy sản xuất ở 26 nước trên thế giới đạt tiêu chuẩn môi trường  ISO 14001.
  • 1996: Ford tăng cường đầu tư chứng khoán bằng việc tăng lượng cổ phiếu biểu quyết ở Mazda lên 33.4%.
  • 1997: Ford tiến hành thiết kế lại hầu hết các mẫu xe Ford, Mercury, Lincoln và Jaguar. Cũng trong năm này Ford cho ra mắt chiếc SUV hạng sang đầu tiên.
  • 1999:  Ford mua lại nhãn mác Volvo. Bill Ford trở thành Chủ tịch hội đồng quản trị.
  • 1999: Thành lập đội đua xe công thức một Jaguar.
  • 2000: Ford mua lại nhãn mác Land Rover từ BMW. Lincoln LS và Jaguar S-Type được giới thiệu. Doanh thu hàng năm đã đạt mức 141 tỷ đôla Mỹ.
  • 2001: Chiếc  Ford Thunderbird được giới thiệu lần thứ hai.
  • 2002: Lincoln Continental bị ngừng sản xuất sau gần 50 năm có mặt trên thị trường,  Jaguar X-Type được giới thiệu.
  • 2003: Ford tròn 100 tuổi. Ford GT được ra mắt nhằm kỷ niệm sự kiện này.  Lincoln Navigator được thiết kế lại cùng với những mẫu Lincoln khác.
  • 2004: Bán chiếc xe đua Jaguar Racing cho Red Bull BmbH.
  • 2004: Chiếc Ford Escape Hybrid và chiếc SUV xăng- điện đầu tiên được giới thiệu.
  • 2005: Chiếc  Ford Mustang phổ biến được thiết kế lại hoàn toàn dành cho model năm 2005, vẫn giữ lại phong cách của những model những năm 1960 nhưng với một hệ truyền động mới và một khung gầm mới. Doanh thu hằng năm đạt đỉnh $178 triệu.
  • 2005-2006: Ford ngừng sản xuất  Mercury Sable năm 2005, và Ford Taurus năm 2006 sau 20.
  • 2006: Ford thông báo về những những cải tổ chính, được gọi là ‘Con đường phía trước” nhằm đưa năng suất sản xuất, và chi phí cố định phù hợp với thị phần dự tính
  • 2006: Bill Ford từ chức Giám đốc điều hành và Alan Mulally sau đó được bổ nhiệm thay thế ông.
  • 2006:  Ford mua lại nhãn mác Rover từ BMW.

No comments:

Post a Comment